Cẩm nang nghề nghiệp
Tuổi nghỉ hưu, thêm một ngày nghỉ lễ… là những điểm mới trong Bộ luật (Lao động)
Sáng 20/11, sau khi Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội Nguyễn Thúy Anh trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi) với tỷ lệ tán thành cao 90,06%).
Về tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường, Bộ luật vừa được thông qua điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với nam (vào năm 2028) và đủ 60 tuổi đối với nữ (vào năm 2035).
Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động là đủ 60 tuổi 3 tháng với nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với nam và 4 tháng đối với nữ.
Người lao động làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm…. có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn. Lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được nghỉ hưu muộn hơn, nhưng không quá 5 năm so với quy định.
Một điểm mới nữa trong bộ luật Lao động vừa thông qua là việc bổ sung ngày nghỉ lễ có hưởng nguyên lương cho người lao động.
Về vấn đề này, bà Thúy Anh cho hay: “Trong số 402 đại biểu Quốc hội cho ý kiến về nội dung này, có 370 đại biểu đồng ý bổ sung 1 ngày nghỉ, hưởng nguyên lương”.
Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị chọn ngày nghỉ là ngày liền kề với ngày Quốc khánh 2.9 thay vì ngày Gia đình Việt Nam (28.6) như nhiều đại biểu Quốc hội đề nghị. Theo đó, ngày Quốc khánh, người lao động sẽ được nghỉ 2 ngày.
“Đây là ngày tết Độc lập, cũng là dịp để người lao động có thêm thời gian tham gia các hoạt động kỷ niệm, chào mừng Quốc khánh 2.9, tăng thêm ý nghĩa chính trị, nâng cao niềm tự hào dân tộc về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, bà Thúy Anh cho biết.
“Đây là ngày Tết Độc lập, cũng là dịp để người lao động có thêm thời gian tham gia các hoạt động kỷ niệm, chào mừng Quốc khánh 02/9, tăng thêm ý nghĩa chính trị, nâng cao niềm tự hào dân tộc về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời, đáp ứng được mong muốn của người lao động có thêm thời gian nghỉ ngơi, sum họp gia đình và giúp trẻ em, học sinh, sinh viên chuẩn bị cho ngày khai giảng năm học mới”, bà Thúy Anh nhấn mạnh thêm.
Ngoài 2 nội dung nêu trên, về giảm thời giờ làm việc bình thường, theo Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội Quốc hội cho biết, Chính phủ đã có công văn đề nghị “trước mắt giữ nguyên thời giờ làm việc bình thường như quy định của bộ luật hiện hành” và “có lộ trình điều chỉnh giảm giờ làm việc bình thường vào thời điểm thích hợp”.
Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu đề xuất theo hướng ghi vào nghị quyết của Quốc hội về việc “từng bước giảm giờ làm”; giao Chính phủ căn cứ tình hình phát triển kinh tế – xã hội, đề xuất giảm giờ làm việc bình thường thấp hơn 48 giờ/tuần.
Đối với mở rộng khung giờ làm thêm tối đa, bà Thúy Anh cho biết, trong số 406 đại biểu Quốc hội bày tỏ ý kiến về vấn đề này có 318 đại biểu đồng ý giữ khung thỏa thuận giờ làm thêm tối đa như hiện hành, nhưng cần ghi rõ thời gian làm thêm giờ theo tháng là 40 giờ/tháng thay vì 30 giờ/tháng và bổ sung quy định cụ thể về các trường hợp được tổ chức làm thêm giờ từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm.
Do đó, bộ luật vừa thông qua được tiếp thu theo hướng này.
Về nghỉ lễ, tết, ngoài 10 ngày nghỉ theo quy định hiện hành, Bộ luật bổ sung thêm một ngày nghỉ vào dịp Quốc khánh. Chính phủ sẽ lựa chọn ngày nghỉ vào 1/9 hoặc 3/9 tuỳ theo lịch từng năm. Quy định này được 452 đại biểu tán thành (93,58%).
Về giờ làm việc bình thường, Bộ luật Lao động 2019 vẫn giữ quy định hiện hành là không quá 8h mỗi ngày và 48h mỗi tuần.
Người sử dụng lao động có quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần nhưng phải thông báo cho người lao động biết; trường hợp theo tuần thì giờ làm việc không quá 10 giờ trong mỗi ngày và không quá 48 giờ mỗi tuần. Ban đêm, giờ làm việc được tính từ 22h đến 6h sáng hôm sau.
Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ.
Về làm thêm giờ, Bộ luật quy định doanh nghiệp chỉ được sử dụng lao động làm thêm giờ khi có sự đồng ý. Số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường mỗi ngày. Nếu doanh nghiệp tính giờ làm việc theo tuần, tổng số giờ làm việc và làm thêm không quá 12 giờ mỗi ngày; không quá 40 giờ mỗi tháng.
Bộ luật cũng nêu rõ, doanh nghiệp đảm bảo giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ mỗi năm.
Các ngành, nghề được làm thêm đến 300 giờ mỗi năm gồm: sản xuất dệt, may, da, giày, điện, điện tử, chế biến nông, lâm, diêm nghiệp, thủy sản; sản xuất, cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước; công việc đòi hỏi lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật cao mà thị trường không cung ứng đầy đủ; giải quyết công việc cấp bách, không thể trì hoãn vì có tính thời vụ; thiên tai, hoả hoạn, thiếu điện, sự cố dây chuyền sản xuất.
Với các trường hợp làm thêm đến 300 giờ, doanh nghiệp phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc UBND cấp tỉnh.
Quy định về làm thêm giờ được 433 đại biểu tán thành (89,65%); 14 người không tán thành (2,9%); 7 người không biểu quyết (1,45%).
Như vậy, Quốc hội đã quyết định không tăng giờ làm thêm tối đa lên 400 giờ mỗi năm như đề xuất trước đó của Ban soạn thảo.
Về nghỉ trong giờ làm việc, người lao động làm việc từ 6 giờ trở lên trong ngày thì được nghỉ giữa giờ ít nhất 30 phút; ban đêm được nghỉ giữa giờ ít nhất 45 phút liên tục; nếu lao động làm việc theo ca thì thời gian nghỉ được tính vào giờ làm việc.
Người lao động làm việc theo ca được nghỉ 12 giờ trước khi chuyển sang ca khác. Đồng thời, mỗi tuần, người lao động được nghỉ ít nhất 24 giờ liên tục.
Bộ luật Lao động của Việt Nam là một văn bản pháp luật toàn diện, quy định nhiều nội dung như hợp đồng lao động, khả năng người lao động thỏa thuận với người sử dụng lao động, tiêu chuẩn tối thiểu về điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn và sức khỏe lao động…
Trong đó, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Bộ luật này đồng nghĩa với việc nhiều người lao động sẽ được hưởng lợi từ sự bảo vệ của Bộ luật Lao động hơn so với trước đây.